I. CÔNG TÁC THANH TRA TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
Chủ trương, chính sách về chuyển đổi số quốc gia trong giai đoạn hiện nay đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể chế hóa vào tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn từ năm 2021- 2030 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 76/NQ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 7 năm 2021), với việc xác định mục tiêu của cải cách hành chính là bước đột phá quan trọng để phát triển đất nước trong thời gian tới, trong đó cũng xác định giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số, thông qua việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số sẽ góp phần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trở thành nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành chính lần này, qua đó nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ chức, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Ứng dụng công nghệ chuyển đổi số được đẩy mạnh, nhất là cung cấp dịch vụ công trực tuyến để người dân, doanh nghiệp được hưởng lợi, cũng như trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu. Các hệ thống chỉ đạo điều hành, trao đổi văn bản điện tử đã phổ biến trong hầu hết các cơ quan nhà nước. Nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đã làm chủ các công nghệ cốt lõi, phát triển nền tảng cho chuyển đổi số. Vấn đề an toàn, an ninh mạng ngày càng chú trọng, thứ hạng an toàn, an ninh mạng Việt Nam được cải thiện vượt bậc. Xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ điện tử theo Báo cáo khảo sát xếp hạng mức độ phát triển Chính phủ điện tử năm 2020 của Liên Hợp quốc, tăng 3 bậc so với năm 2016 (năm 2020 xếp thứ 86, năm 2016 xếp thứ 89) [1]
Với mục tiêu thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số là hình thành hệ sinh thái nền tảng số Việt, được sử dụng sâu rộng để tạo hạ tầng mềm phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số quốc gia và trong từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, góp phần quan trọng để đạt được các chỉ tiêu chiến lược quốc gia phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Tạo lập được một số nền tảng số Việt Nam xuất sắc đủ sức cạnh tranh với các nền tảng số phổ biến quốc tế, chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, từ đó vươn ra thị trường khu vực và toàn cầu.
Nền tảng số là hệ thống thông tin phục vụ các giao dịch điện tử trực tuyến hoạt động theo mô hình sử dụng công nghệ số để tạo môi trường mạng cho phép nhiều bên cùng tham gia để giao dịch, cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân, có thể sử dụng ngay, đơn giản, thuận tiện, linh hoạt theo yêu cầu, dễ dàng phổ biến trên diện rộng, các bên tham gia không cần tự đầu tư, quản lý, vận hành, duy trì. Nền tảng số là “hạ tầng mềm” của không gian số, giải quyết các bài toán cụ thể của chuyển đổi số, tạo lập và lưu trữ dữ liệu người dùng; càng có nhiều người sử dụng thì dữ liệu càng nhiều, chi phí càng rẻ, giá trị tạo ra càng lớn.
Nền tảng số là giải pháp đột phá để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Điểm đột phá là nắm bắt cơ hội, phát triển và phổ cập thật nhanh các nền tảng số quốc gia phục vụ các nhu cầu riêng, đặc thù của người Việt Nam, trên cơ sở phân loại và thấu hiểu nhu cầu sử dụng của từng ngành, nghề, lĩnh vực [2].
Có thể nói, với sự tác động mạnh mẽ của công cuộc chuyển đổi số quốc gia với 03 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, đã có ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Công tác thanh tra với vai trò quan trọng, là phương thức bảo đảm pháp chế XHCN, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì cũng không nằm ngoài sự tác động của công cuộc chuyển đổi số quốc gia nói trên, từ đó đặt ra nhiều yêu cầu, thách thức đối với việc đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, theo như định hướng chỉ đạo về công tác thanh tra “Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ, phát triển” [3].
Luật Thanh tra năm 2010, được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011, bên cạnh việc tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm triển khai thực hiện, Luật Thanh tra cũng không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn công tác quản lý nhà nước, nhất là trong bối cảnh thực hiện công cuộc chuyển đổi số quốc gia đang đặt ra hiện nay, thể hiện ở một số vấn đề như sau:
- Hệ thống tổ chức của các cơ quan thanh tra nhà nước dàn trải, có ở hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, bên cạnh các cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thanh tra là các cơ quan thanh tra nhà nước, còn có các cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành ở cục, tổng cục, chi cục… nhưng thiếu sự chỉ đạo tập trung, dẫn đến vừa phân tán lại vừa thiếu tính thống nhất trong tổ chức, hoạt động.
- Sự phân biệt giữa hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giữa hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động kiểm tra thường xuyên theo chức năng quản lý nhà nước không rõ ràng đã dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra… Đặc biệt là có sự chồng chéo, trùng lắp giữa hoạt động thanh tra theo chức năng quản lý hành chính với hoạt động kiểm toán nhà nước rất khó khắc phục, mà trên thực tế là sự phân chia việc, kiểm toán nhà nước làm thì thanh tra thôi và ngược lại.
- Đối với hình thức thanh tra, hiện nay có 3 loại hình là thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất [4]. Việc tổ chức thực hiện thanh tra theo kế hoạch còn gặp nhiều khó khăn, mà nguyên nhân chính là số lượng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự quản lý, thanh tra, kiểm tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp nhiều, phạm vi rộng, thì số lượng công chức thuộc các cơ quan thanh tra mỏng, nhất là trong bối cảnh hiện nay, theo yêu cầu của cải cách hành chính, việc sắp xếp tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế đặt ra hiện nay nên rất khó để hoàn thành kế hoạch đặt ra…
Trong mấy năm gần đây, Việt Nam cùng với các quốc gia trên thế giới đã và đang phải đối mặt với những thách thức của dịch bệnh Covid-19, Chính phủ nhiệm kỳ khóa XV đã triển khai nhiều giải pháp để đối phó với dịch bệnh nhằm bảo vệ sức khỏe của nhân dân, dần đưa cuộc sống trở lại với nếp sống bình thường mới. Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta coi chuyển đổi số là xu thế tất yếu không chỉ riêng ở nước ta mà trên bình diện toàn thế giới, nhất là trong bối cảnh đối diện với “thách thức kép”, - vừa chống đại dịch Covid-19, vừa chủ động thích ứng an toàn, linh hoạt, hiệu quả để phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Không vì có đại dịch Covid-19 mà đình trệ mọi hoạt động, tuân thủ nghiêm các yêu cầu của y tế. Các hoạt động thanh tra cũng vẫn phải được diễn ra, nhưng phải thích ứng theo phương thức làm từ xa, giảm tiếp xúc trực tiếp, tận dụng tối đa trên môi trường số. Dịch Covid-19 bắt buộc chúng ta phải thay đổi và nhiều cách làm mới, hiệu quả hơn sẽ xuất hiện.
Thời gian qua, ở một số ngành, lĩnh vực như tài chính, thuế, hải quan, thông tin và truyền thông… đã chủ động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, kiểm tra, đổi mới phương thức làm việc như tích cực trao đổi, phối hợp, nắm bắt thông tin từ các cơ quan quản lý, các cơ quan, tổ chức có liên quan, nghiên cứu các tài liệu từ các ứng dụng từ cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan, Kho bạc Nhà nước, hồ sơ niêm yết trên thị trường chứng khoán…
Tuy nhiên, phương thức thanh tra theo Luật Thanh tra năm 2010 về cơ bản vẫn là phương thức truyền thống, vẫn là tổ chức các Đoàn thanh tra xuống trực tiếp tại cơ quan, đơn vị của đối tượng thanh tra để tiếp nhận tài liệu, chứng từ thủ công, vẫn họp hành, làm việc, giải trình trực tiếp… Đứng trước những thay đổi trong đời sống xã hội mà đại dịch covid-19 tạo ra, trước những bước tiến nhanh chóng của cuộc cách mạng 4.0 với yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, nếu ngành Thanh tra không có những đổi mới để thích ứng thì hoàn toàn có thể bị bỏ lại phía sau.
Từ thực tiễn này, càng cho thấy yêu cầu ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng nói riêng là một yêu cầu bức thiết được đặt ra hiện nay.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ, HIỆU LỰC THI HÀNH CÔNG TÁC THANH TRA TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ
1. Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới nói chung và chuyển đổi số quốc gia nói riêng đặt ra hiện nay.
a) Về tổ chức các cơ quan thanh tra.
Nhìn lại lịch sử hơn 75 năm qua của ngành Thanh tra Việt Nam, cho thấy cơ sở lý luận để xây dựng hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước dựa vào một nguyên lý chung, từ câu nói của Lê-Nin trong kinh điển: “thanh tra và quản lý là một chứ không phải là hai” [5]. Tuy nhiên, với việc xây dựng hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động thanh tra theo như Luật Thanh tra năm 2010, có các cơ quan thanh tra nhà nước và các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, trong đó các cơ quan thanh tra khi tiến hành thanh tra phải đảm bảo đưa ra các kết luận chính xác, khách quan, làm rõ đúng, sai của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Nhưng về tổ chức lại đặt cơ quan thanh tra chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về công tác, tổ chức, nghiệp vụ. Điều này dẫn đến không phát huy được vai trò của các cơ quan thanh tra trong việc kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật…
Có rất nhiều nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động thanh tra, nhưng xét trên phương diện lý luận, nguyên nhân sâu xa chính là việc chưa phân biệt rành mạch 2 khái niệm “thanh tra” và “kiểm tra”, mặc dù vị trí của cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra hay kiểm tra vẫn phải đặt ở các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp [6].
Việc đổi mới tổ chức thanh tra cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia. Vì vậy, trong Luật Thanh tra sửa đổi lần này, cần phải làm rõ 3 hình thức thanh tra, kiểm tra sau:
Thứ nhất, với hoạt động kiểm tra của người quản lý (i), trong bộ máy hành chính nhà nước, nó được nhìn nhận như một khâu, một chức năng tự xem xét lại các quyết định quản lý của mình để có biện pháp tác động, phục vụ cho công tác quản lý của mình. Với hoạt động kiểm tra này, chính là hoạt động kiểm tra mang tính tự thân của người quản lý, nên nó là hoạt động diễn ra bất cứ lúc nào trong quá trình quản lý, nó có thể là hoạt động kiểm tra thường xuyên, cũng là hoạt động kiểm tra đột xuất khi phát hiện có vấn đề trong công tác quản lý.
Người quản lý có thể là Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở… có thể tổ chức một đơn vị (bộ phận) chuyên trách hoặc giao thêm nhiệm vụ này cho cho đơn vị khác (Tổ chức, hành chính, pháp chế…) để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, đề xuất với người quản lý chấn chỉnh công tác quản lý ở ngành, địa phương mình. Phương thức hoạt động kiểm tra phải đơn giản, thuận tiện để kịp thời phục vụ cho hoạt động quản lý của người thủ trưởng.
Thứ hai, là hoạt động thanh tra (ii), đây cũng là một hình thức để xem xét lại công tác quản lý, nhưng ở cấp độ cao hơn. Tuy nhiên, nó được thiết kế như một thiết chế hành chính để có tính phán quyết đúng, sai đối với hoạt động quản lý, vì vậy đòi hỏi thanh tra phải có tính độc lập trong hoạt động, như nội hàm của từ Thanh tra xuất phát từ gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, đó là các cơ quan thanh tra nhà nước. Các cơ quan này sẽ chỉ vào tiến hành thanh tra khi qua công tác nắm tình hình, từ dư luận xã hội quan tâm… để tiến hành thanh tra với tính chất như “hậu kiểm”. Với yêu cầu là một thiết chế hành chính thì cán bộ, Thanh tra viên ở các cơ quan thanh tra phải có nghiệp vụ thanh tra một cách chuyên nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật.
Mô hình các cơ quan thanh tra này phải được tổ chức sao cho “đứng ngoài” cơ quan quản lý, trực thuộc Chính phủ và tổ chức theo hệ thống dọc với biên chế thật tinh gọn:
- Ở Trung ương: có cơ quan Thanh tra Chính phủ trực thuộc Chính phủ, có nhiệm vụ giúp Chính phủ tiến hành nhiệm vụ thanh tra đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi quản lý của Chính phủ.
- Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: có thể tổ chức cơ quan thanh tra theo cấp tỉnh hoặc theo khu vực (1 số tỉnh, thành phố có sự phù hợp về điều kiện địa lý…), trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện từ Thanh tra Chính phủ về công tác, tổ chức, nghiệp vụ, tiến hành các nhiệm vụ thanh tra theo phân cấp quản lý ở địa bàn cấp tỉnh.
- Ở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: có thể tổ chức cơ quan thanh tra theo cấp huyện hoặc theo khu vực (1 số huyện có sự phù hợp về điều kiện địa lý…), trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện từ Thanh tra ở cấp tỉnh về công tác, tổ chức, nghiệp vụ, tiến hành các nhiệm vụ thanh tra theo phân cấp quản lý ở địa bàn cấp huyện.
Một vấn đề nữa, cũng cần phải nhắc đến khi thiết kế mô hình tổ chức, hoạt động thanh tra, đó là cần phải nghiên cứu, đề xuất quy định để nâng cao vị thế của Người đứng đầu cơ quan thanh tra, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Từ thực tiễn khảo sát mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra của một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia; Trung Quốc… Với đặc thù của Việt Nam, có một Đảng cầm quyền được xác lập trong Hiến pháp năm 2013, đối tượng của hoạt động thanh tra là cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cũng chính những người đó lại là đảng viên trong thực hiện chức trách của đảng viên ở cơ quan, đơn vị. Để tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra đảng, nên chăng nhất thể hóa chức danh Người đứng đầu cơ quan thanh tra với Lãnh đạo của Ủy ban Kiểm tra cùng cấp [7].
Thứ ba, hình thức thanh tra chuyên ngành (iii). Với đặc thù là một thiết chế để phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuộc các ngành, lĩnh vực [8] thì sẽ do các Bộ, ngành trực tiếp quản lý. Do tính chất đa ngành, đa lĩnh vực và sự đa dạng trong phương thức tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, nên vị trí của thanh tra chuyên ngành sẽ là các tổ chức trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ. Mô hình tổ chức, hoạt động của của hình thức thanh tra, kiểm tra chuyên ngành này sẽ do Chính phủ quy định.
Với cách xác định 3 hình thức thanh tra, kiểm tra nêu trên có ưu điểm sẽ phân biệt rạch ròi giữa hoạt động tự kiểm tra của người quản lý với hoạt động thanh tra - một thiết chế phát hiện và xử lý vi phạm của bộ máy hành chính, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc về tính độc lập trong tổ chức, hoạt động thanh tra theo Luật Thanh tra năm 2010 hiện nay.
b) Về hoạt động thanh tra.
Dưới tác động của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, Luật Thanh tra năm 2010 được sửa đổi lần này bên cạnh việc kế thừa những yếu tố hợp lý về hoạt động thanh tra, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về hình thức, phương pháp tiến hành thanh tra trên cơ sở tận dụng và khai thác những ưu thế của hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia được hình thành sau khi thực hiện chủ trương chuyển đổi số.
Chính từ việc xây dựng nền tảng số với hệ thống thông tin phục vụ các giao dịch điện tử trực tuyến hoạt động theo mô hình sử dụng công nghệ số để tạo môi trường mạng cho phép nhiều bên cùng tham gia để giao dịch, cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân, hoạt động của các cơ quan thanh tra cần tiếp cận các nền tảng số này để khai thác, phục vụ cho việc quản lý, kiểm soát, đánh giá.
Để làm được điều này, cần sửa đổi Luật Thanh tra với hình thức thanh tra thường xuyên, thanh tra theo chương trình, kế hoạch với việc chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” với việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ xa, thông qua nắm bắt, khai thác dữ liệu về cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra từ hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung, trên cơ sở đó vẫn thể hiện vai trò của cơ quan thanh tra, là chức năng quan trọng là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý.
Tuy nhiên, việc tận dụng những ưu thế của cơ chế kiểm soát từ xa với việc khai thác hiệu quả của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, cũng không thể phủ nhận vai trò của hoạt động thanh tra trực tiếp, đây là quá trình khai thác những yếu tố tâm lý để đấu tranh, xác định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân thừa nhận những hành vi vi phạm pháp luật, nhưng mặt khác cũng thể hiện vai trò của thanh tra là giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng pháp luật.
2. Đổi mới phương thức hoạt động thanh tra, đáp ứng yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia
Có thể nhận thấy, dưới sự tác động của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, sự thay đổi lớn nhất trong lĩnh vực thanh tra đó là phải đổi mới phương thức tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra là phải chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, với sự hỗ trợ đắc lực của chuyển đổi số, giúp hình thành lên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, sử dụng chính hệ thống dữ liệu đó là phương thức để kiểm soát hoạt động quản lý. Muốn vậy, phương thức hoạt động thanh tra phải hướng vào kiểm soát từ xa được đặt lên ưu tiên cao hơn. Kiểm soát từ xa sẽ giúp cho người quản lý nhìn nhận toàn diện, thường xuyên hơn, có thể được cảnh báo sớm, nhắc nhở sớm hơn, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm, chấn chỉnh, cứu được cán bộ, muốn kiểm soát từ xa được thì phải dùng công nghệ số.
Bên cạnh việc, các Bộ, ngành xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu, kết nối dữ liệu và chuẩn hóa được các dữ liệu cần được kết nối, cơ chế bảo vệ dữ liệu được công bố thì các cơ quan thanh tra nhà nước sẽ xây dựng các yêu cầu để khai thác cơ sở dữ liệu dùng chung, các nguyên tắc khai thác, trách nhiệm của cán bộ thanh tra khi khai thác các dữ liệu này, kết hợp với việc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để phân tích, đánh giá và đưa ra kết luận, đề xuất kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý. Áp dụng nguyên tắc thanh tra, kiểm tra theo cơ chế quản lý rủi ro, hạn chế tối đa việc thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại cơ quan, đơn vị. Hoạt động thanh tra trực tiếp sẽ được diễn ra khi thông qua hoạt động giám sát, nắm bắt thông tin trên cơ sở hệ thống cơ sở dữ liệu, nếu phát hiện có dấu hiệu bất thường, hoặc có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật. Nếu đã giám sát được thì hoạt động thanh tra, kiểm tra định kỳ, thực hiện theo kế hoạch sẽ ít đi.
Do có sự sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra và các nhiệm vụ đột xuất được giao nên chất lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra được nâng cao, các kiến nghị, đề xuất mang tính thiết thực, phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý, điều hành của Bộ, ngành được hiệu quả, thực sự phát huy được vai trò của thanh tra là cánh tay đắc lực của công tác lãnh đạo, quản lý trong việc uốn nắn, chấn chỉnh những hành vi lệch lạc trong công tác quản lý.
Trên cơ sở các quy định của Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành phải cụ thể hóa thành quy trình nghiệp vụ, phải bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục thanh tra, các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, việc sử dụng công nghệ trong hoạt động thanh tra cho phù hợp với những yêu cầu khách quan của đời sống xã hội và của hoạt động quản lý theo xu thế số hóa hiện nay, các kỹ năng nghiệp vụ hoàn toàn mới.
3. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ sở hạ tầng của các cơ quan thanh tra nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số
Một là, cần xây dựng Kế hoạch Chuyển đổi số của Thanh tra Chính phủ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo như nội dung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính đã nêu ra. Đồng thời, phải xây dựng, cập nhật Kiến trúc Chính phủ điện tử và Kế hoạch triển khai Kiến trúc Chính phủ điện tử của Thanh tra Chính phủ phiên bản 2.0 theo quy định của Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản 2.0 được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành.
Hai là, phải số hóa và quản lý, sử dụng dữ liệu một cách có hiệu quả trong hoạt động của Thanh tra Chính phủ nói riêng và ngành Thanh tra nói chung. Hoàn thiện và khai thác hệ thống Quản lý văn bản và Điều hành tác nghiệp, bảo đảm kết nối, liên thông trao đổi văn bản điện tử với hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ, kết nối với Trục liên thông văn bản quốc gia. Hướng đến 100% văn bản nội bộ của Thanh tra Chính phủ sử dụng hình thức văn bản điện tử. Xây dựng hệ thống tự động phân tích văn bản báo cáo và đưa ra các nhận định, thống kê phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ một cách nhanh chóng, kịp thời.
Ba là, đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng số theo hướng đảm bảo các điều kiện cần và đủ về hạ tầng công nghệ thông tin, trong đó:
- Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu, có ít nhất 02 trung tâm dữ liệu có năng lực tính toán cao, kết nối đồng bộ để phục vụ các ứng dụng của Chính phủ và Thanh tra Chính phủ, đảm bảo độ tin cậy, ốn định, dựa trên công nghệ điện toán đám mây được cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam có uy tín, đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu Tier 3.
- Triển khai thực hiện một số dự án như “Mua sắm hệ thống thiết bị chuyển mạch tầng, chuyển mạch lõi”; dự án “Xây dựng nền tảng chia sẻ, tích hợp dùng chung (LGSP)”; dự án “Xây dựng Cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử”. Duy trì sử dụng Mạng truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, Nhà nước; triển khai mạng WAN đến toàn bộ các cục, vụ, đơn vị trong cơ quan Thanh tra Chính phủ.
Bốn là, ngành Thanh tra cần quan tâm, phát triển hạ tầng dữ liệu, phục vụ chuyển đổi số theo lộ trình phù hợp, bao gồm các cơ sở dữ liệu nội bộ, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ sở dữ liệu quốc gia… Cụ thể là:
- Triển khai dự án của Thanh tra Chính phủ về “Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập” để thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 nhằm xác minh được nguồn gốc tài sản, thu nhập của người thuộc đối tượng phải kê khai trong phạm vi cả nước; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, đề án, chiến lược, chương trình, kế hoạch về công tác phòng, chống tham nhũng; công khai kết quả kê khai tài sản, thu nhập.
- Triển khai xây dựng hệ thống Cơ sở dữ liệu Quốc gia về khiếu nại, tố cáo. Việc sử dụng Cơ sở dữ liệu này nhằm đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo để kịp thời theo dõi, nắm bắt thông tin liên quan đến khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân và xử lý kiến nghị, phản ánh, hạn chế tình trạng đơn, thư trùng lặp và tiết kiệm thời gian thu thập, theo dõi, thuận lợi cho công tác tổng hợp, báo cáo.
- Triển khai hệ thống báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, triển khai đến đầu mối thanh tra các quận/huyện/sở ngành. Hệ thống cơ bản đáp ứng mục tiêu tra cứu, tổng hợp số liệu kịp thời phục vụ quản lý nhà nước trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong toàn quốc; đảm bảo kết nối, tích hợp với Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Tiếp tục triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 trong lĩnh vực tiếp công dân (đăng ký và hẹn lịch tiếp công dân trên Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ).
4. Triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh thông tin của cơ quan Thanh tra Chính phủ
Bên cạnh nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, công sở điện tử, tin học hóa các dịch vụ hành chính công, ngành Thanh tra cũng cần quan tâm thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, với những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng hoàn thiện về thể chế, ban hành, các kế hoạch, quy chế, quy định về bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước.
- Hoàn thành việc triển khai và duy trì bảo đảm an toàn thông tin mô hình 4 lớp (Kiện toàn lực lượng tại chỗ; Lựa chọn tối thiểu một tổ chức, doanh nghiệp giám sát, bảo vệ chuyên nghiệp; Định kỳ thực hiện kiểm tra, đánh giá độc lập; Kết nối, chia sẻ thông tin với hệ thống giám sát quốc gia) theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông; áp dụng hệ thống quản lý an toàn thông tin mạng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào hoạt động của cơ quan, tổ chức.
- Hoàn thành triển khai và duy trì Trung tâm Giám sát, điều hành an toàn, an ninh mạng (SOC), kết nối và chia sẻ thông tin với Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (Cục An toàn thông tin).
- Xây dựng và triển khai kế hoạch dự phòng, sao lưu dữ liệu, bảo đảm hoạt động liên tục của cơ quan, tổ chức; sẵn sàng khôi phục hoạt động bình thường của hệ thống sau khi gặp sự cố mất an toàn thông tin mạng.
- Thường xuyên rà soát, cập nhật, phê duyệt cấp độ an toàn hệ thống thông tin và triển khai phương án bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. Rà soát hiện trạng, tăng cường đầu tư trang thiết bị và thuê dịch vụ chuyên nghiệp nhằm nâng cao năng lực bảo đảm an toàn thông tin, phòng chống mã độc theo mô hình tập trung, ưu tiên cho các hệ thống cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp và hệ thống trung tâm dữ liệu.
- Kiện toàn, nâng cao năng lực và duy trì hoạt động thường xuyên của Đội ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng; tham gia tích cực vào các hoạt động của Mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia; tăng cường chia sẻ, cung cấp thông tin về sự cố an toàn mạng.
5. Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là những hiểu biết về công nghệ thông tin cho đội ngũ công chức, viên chức ngành Thanh tra để thích ứng với công cuộc chuyển đổi số quốc gia
Đứng trước yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia đang đặt ra hiện nay, đội ngũ những người làm công tác thanh tra cần phải thay đổi nhận thức, tư duy về quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm soát trong thời đại 4.0. Họ phải được trang bị kiến thức mới, kỹ năng mới mà trước nay chưa biết hay chưa quan tâm đến: từ kỹ năng sử dụng các thiết bị công nghệ, kỹ năng khai thác dữ liệu điện tử, thậm chí cả kỹ năng sử dụng AI trong phân tích, đánh giá số liệu…
Để làm được những việc như vậy, thiết nghĩ ngành Thanh tra cần phải nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện đề án về nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Theo đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng sẽ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc cho đội ngũ cán bộ thanh tra về công nghệ thông tin, thích ứng với việc đổi mới phương thức hoạt động thanh tra theo hướng các Đoàn thanh tra sẽ tiến hành thu thập thông tin, tài liệu, khai thác các dữ liệu điện tử từ đối tượng thanh tra thay vì phương pháp truyền thống hiện nay./.
TS. Nguyễn Huy Hoàng
Phó Hiệu trưởng, Trường Cán bộ Thanh tra
Tác giả bài viết: Dẫn nguồn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn